SAU KHI HAI VỢ CHỒNG LY HÔN, ÔNG NGOẠI CÓ THỂ NGĂN CẤM BỐ ĐÓN CON VỀ THĂM ÔNG BÀ NỘI KHÔNG? ÔNG NGOẠI CÓ THỂ BỊ PHẠT KHÔNG?
Sau khi hai vợ chồng ly hôn, con tôi 25 tháng tuổi nên phải để mẹ trực tiếp chăm sóc. Từ khi con về sống với mẹ và ông bà ngoại, ông ngoại cháu không cho phép tôi đến đưa con về thăm ông bà bên nội. Tết tôi xin phép đón con về ăn tết cùng ông bà nội và anh em họ hàng bên nội của cháu nhưng ông ngoại của cháu ngăn cấm. Tôi xin hỏi là liệu việc tôi xin đón cháu về những dịp như vậy là có chính đáng không? Hành vi ngăn cản con cháu được về với gia đình nội của ông ngoại cháu có đúng không?
I. Ông ngoại có thể ngăn cấm bố đón con về thăm ông bà nội sau khi hai vợ chồng ly hôn không?
Sau khi hai vợ chồng ly hôn, vợ bạn trực tiếp chăm sóc con 25 tháng tuổi nên được xem là người trực tiếp nuôi con, còn bạn được xem là người không trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.
Tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
…
- Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
…
- Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Theo điểm g khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022 thì “Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau” là hành vi bạo lực gia đình.
Theo đó, nếu việc đưa cháu về thăm ông bà bên nội và đón Tết cùng bên nội là đúng theo thỏa thuận của hai vợ chồng, không cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì việc làm của bạn là hoàn toàn chính đáng để bạn thực hiện quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn của mình theo đúng quy định pháp luật.
Như vậy, ông ngoại không được ngăn cấm bố đón con về thăm ông bà nội sau khi hai vợ chồng ly hôn.
Ông ngoại ngăn cấm bố đón con về thăm ông bà nội sau khi hai vợ chồng ly hôn bị xử phạt hành chính như thế nào?
Nếu việc đưa cháu về thăm ông bà bên nội của bạn là chính đáng, hành vi ngăn cản cháu được về với gia đình nội của ông ngoại là một hành vi bạo lực gia đình.
Hành vi này bị xử phạt theo Điều 56 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình:
“Hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.”
Như vậy, ông ngoại ngăn cấm bố đón con về thăm ông bà nội sau khi hai vợ chồng ly hôn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
II. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với việc ông ngoại ngăn cấm bố đón con về thăm ông bà nội sau khi hai vợ chồng ly hôn là bao lâu?
Theo khoản 1 Điều 5 Nghị định 144/2021/NĐ-CP có quy định như sau:
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
- Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình là 01 năm.
- Thời điểm để tính thời hiệu phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:
- a) Đối với hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm;
- b) Đối với hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm;
- c) Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân do người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính chuyển đến thì thời hiệu xử phạt được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này và các điểm a và b khoản này tính đến thời điểm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Như vậy, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với việc ông ngoại ngăn cấm bố đón con về thăm ông bà nội sau khi hai vợ chồng ly hôn là 01 năm.